Các động mạch mạc treo cung cấp máu cho ruột non và ruột già. Thiếu máu mạc treo xảy ra khi một hay nhiều nhánh của các động mạch này bị hẹp hay tắc nghẽn, làm cho ruột không nhận đủ lượng oxy cần thiết để thực hiện quá trình tiêu hóa. Mặc dù có nhiều tiến bộ về kỹ thuật trong y học, thiếu máu mac treo vẫn còn gặp nhiều khó khăn để nhận biết do các dấu hiệu và triệu chứng không đặc hiệu dễ nhầm lẫm với các bệnh lý khác của bụng. Thiếu máu mạc treo thường xảy ra ở những người già trên 60 tuổi ,có tiền sử hút thuốc lá, tăng cholesterol máu và các bệnh như rối loạn nhịp tim, xơ vữa động mạch, suy tim sung huyết, rối loạn đông máu, bốc tách động mạch chủ, rối loạn bất thường của mạch máu như chứng loạn sản sợi cơ và viêm động mạch.Mặc dù,thiếu máu mạc treo là một bệnh không phổ biến chiếm khoảng 0,1% trong các trường hợp nhập viện, nhưng nếu chẩn đoán chậm trễ,ruột sẽ nhanh chóng bị hoại tử dẫn đến suy cơ quan, nhiễm trùng huyết, và tử vong.Dó đó, chẩn đoán sớm là hết sức cần thiết để ngăn chặn nhồi máu ruột xảy ra.
Các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của thiếu máu mạch treo:
Thuyên tắc động mạch mạc treo:
Đây là nguyên nhân phổ biến nhất của thiếu máu mạc treo chiếm khoảng 40% -50% các trường hợp. Thường liên quan đến tắc mạch mạc treo cấp.Tiên lượng xấu với 70% trường hợp tử vong.
Động mạch mạc treo tràng trên bị ảnh hưởng nhiều nhất. Trong khi đó, các nhánh của động mạch mạc treo tràng dưới hiếm khi bị ảnh hưởng do có đường kính nhỏ. Thường do cục huyết khối đến từ tim.
Yếu tố nguy cơ bao gồm rối loạn nhịp tim ( rung nhĩ là phổ biến nhất), nhồi máu cơ tim , bệnh van tim , khiếm khuyết cấu trúc tim ( shunt phải trái )
Huyết khối động mạch mạc treo:
Chiếm khoảng 25% – 30% trường hợp thiếu máu mạc treo với tỉ lệ tử vong 90%. Thường liên quan đến tắc mạch mạc treo mãn với các triệu chứng mơ hồ và âm ỉ. Tỉ lệ tử vong cao là do huyết khối thường ở gần vị trí xuất phát của động mạch mạc treo tràng trên nên dẫn đến một lượng lớn ruột hoại tử . Thường xảy ra trên nền bệnh lý xơ vữa động mạch và thường gặp ở những người lớn tuổi.
Huyết khối tĩnh mạch mạc treo:
Là nguyên nhân ít phổ biến nhất của thiếu máu mạc treo khoảng 10% trường hợp với một tỷ lệ tử vong 20-50%. Thường xảy ra ở những người trẻ với các triệu chứng giống như trong huyết khối động mạch mạc treo.Các triệu chứng có thể xảy ra cấp tính hay theo thời gian tùy thuộc vào tốc độ tiến triển của huyết khối. Yếu tố nguy cơ bao gồm tình trạng tăng đông máu (yếu tố V Ledien, thiếu protein C, …), phẫu thuật gần đây, bệnh u ác tính, và xơ gan.
Nguyên nhân không do tắc:
Chiếm khoảng 20 đến 30% các trường hợp với tỷ lệ tử vong từ 50 đến 90%. Đây là loại thiếu máu mạc treo xảy ra trong tình trạng giảm lượng máu chảy trong lòng mạch khi không có sự hiện hiện của tắc động mạch hoặc tĩnh mạch, thường liên quan đến giảm cung lượng tim .Yếu tố nguy cơ : sốc tim , suy tim sung huyết, rối loạn nhịp tim, nhiễm trùng huyết, hạ huyết áp,các thuốc gây co mạch (Digoxin, Cocaine, thuốc chẹn Beta…)
Triệu chứng của thiếu máu mạch treo:
– Trong thiếu máu mạc treo mạn tính thường xuất hiện với đau bụng dữ dội từ 15 đến 60 phút sau khi ăn.Cơn đau này có thể xảy ra ở bất cứ vị trí nào của bụng, nhưng phổ biến nhất là xảy ra ở phần bụng trên.Cơn đau có thể kéo dài khoảng 60 đến 90 phút và sau đó biến mất.Nhưng nó có xu hướng trở lại trong những lần sau đó sau khi ăn, làm người bệnh không dám ăn vì sợ cơn đau diễn ra dẫn đến sụt cân; kèm theo tiêu chảy, buồn nôn, nôn ói, chướng hơi, táo bón.
– Trường hợp thiếu máu mạc treo cấp thường cơn đau khởi phát đột ngột với diễn tiến rầm rộ và dữ dội hơn cũng thường kèm theo buồn nôn hay nôn ói.
Chẩn đoàn cận lâm sàng:
– Xét nghiệm máu : Số lượng bạch cầu tăng, nhưng nó không đặc hiệu và khi số lượng bạch cầu bình thường cũng không loại trừ bệnh.Lactate máu tăng, tuy nhiên nó thường tăng vào giai đoạn muộn của bệnh sau khi nhồi máu ruột xảy ra.Ngoài ra, tình trạng toan chuyển hóa và tăng amylase máu cũng được phát hiện nhưng cũng không đặc hiệu.
– X-Quang bụng đứng : thường không phát hiện được gì trong giai đoạn sớm của bệnh nhưng nó cũng giúp loại trừ hơi tự do trong ổ bụng.Khi thiếu máu mạc treo tiến triển có thể thấy thành ruột dày, quai ruột căng to.
– Chụp mạch máu: là tiêu chuẩn để chẩn đoán và điều trị tắc mạch mạc treo.Cho phép đánh giá hình ảnh mạch máu giúp phát hiện vị trí hẹp, tắc nghẽn mạch máu ; đồng thời giúp can thiệp điều trị như truyền papaverine hay tan huyết khối vào động mạch trong quá trình tiến hành chụp.Tuy nhiên đây là kỹ thuật xâm lấn và thương chỉ được trang bị ở cách bệnh viện chuyên khoa.
– CT scan: là kỹ thuật hình ảnh nhanh, ít xâm lấn và được sử dụng rộng rãi hơn so với kỹ thuật chụp mạch máu. Ngoài phát hiện các bệnh lý về mạch máu như thuyên tắc,hẹp, huyết khối,phình động mạch;còn cho hình ảnh bề dày, độ giản của ruột, phù mạch treo hay các bất thường của các cơ quan khác trong ổ bụng.
– Siêu âm Doppler : cho phép đánh giá các vấn đề về cấu trúc mạch máu,lưu lượng máu. Tuy nhiên, độ chính xác của nó bị hạn chế ở các bệnh nhân béo phì, có khí trong ruột, hay là các thuyên tắc ở ngoại vi mạch máu.
– MRI: có khả năng cung cấp hình ảnh chính xác của hệ thống mạch máu mạc treo.Nhưng cũng không được trang bị rộng rãi và có sự hạn chế thời gian nên làm trì hoãn can thiệp phẩu thuật.
Nguồn :
http://www.vascularweb.org/vascularhealth/Pages/mesenteric-ischemia.aspx
http://www.cdemcurriculum.org/ssm/gi/mesenteric_ischemia/mesenteric_ischemia.php
Read Full Post »
Bạn phải đăng nhập để bình luận.