Bệnh lý viêm ruột thừa có 2 thể: cấp tính và mạn tính
Viêm ruột thừa cấp là 1 bệnh lí cấp cứu ngoại khoa thường gặp nhất. Cách xử trí là can thiệp ngoại khoa để phòng các biến chứng
Viêm ruột thừa mãn tính là 1 bệnh lí hiếm gặp của ruột thừa. Nguyên nhân là do lòng ruột thừa bị tắc nghẽn sau đó sự tái thông thương và hiện tượng này có thể lập đi lập lại nhiều lần. Cách xử trí không như VRT cấp => Chủ yếu là mổ chương trình
Sơ lược cấu trúc giải phẫu của ruột thừa:
Vị trí của ruột thừa
¼ bụng dưới phải hay hố chậu phải
Ruột thừa là phần đầu của manh tràng bị thoái hóa -> mở vào lòng manh tràng qua lỗ ruột thừa.
Ở vị trí bình thường: Gốc của ruột thừa dính vào mặt sau trong của manh tràng. Là nơi hội tụ của 3 dải cơ dọc của manh tràng
=> Khi đối chiếu trên thành bụng tương ứng với điểm Mac- Burney (ở 1/3 ngoài đường nối rốn và gai chậu trước trên)
Đầu ruột thừa có thể có vị trí rất thay đổi so với manh tràng => Vị trí đau ở 1 Bn VRT có thể thay đổi
Cấu tạo mô học của ruột thừa
=> Gồm 5 lớp:
– Lớp thanh mạc (phúc mạc tạng) bao quanh ruột thừa
– Lớp dưới thanh mạc lỏng lẻo => thanh mạc dễ tách khỏi ruột thừa, nhất là khi bị viêm
– Lớp cơ: gồm cơ dọc và cơ vòng kém phát triển
– Lớp dưới niêm mạc và lớp niêm mạc rất dày -> có 1 ít tuyến, chứa các nang bạch huyết chùm (hạch lympho trên thành ruột thừa).
Tại sao VRT cấp lại là 1 bệnh lí ngoại khoa thường gặp?
Cơ chế bệnh sinh hầu hết là do sự tắc nghẽn lòng ruột thừa
Nguyên nhân của sự tắc nghẽn thường gặp nhất là sự phì đại hạch bạch huyết thành ruột thừa do viêm nhiễm.
Lòng ruột thừa rất hẹp và có khi bị bịt
=> Do cấu tạo đặc biệt như vậy nên ruột thừa dễ bị viêm.
Thể lâm sàng chiếm tỉ lệ cao nhất trong VRT cấp là VRT chưa vỡ mủ
Đau bụng và chán ăn là hai triệu chứng luôn có mặt
Vị trí đau có thể bắt đầu tại ngay hố chậu phải hay tại 1 vị trí khác (vùng thượng vị hay quanh rốn) => vài giờ sau chuyển sang khu trú HCP.
Tại sao trong viêm ruột thừa cấp triệu chứng đau lại xuất hiện ở vùng thượng vị và quanh rốn trước rồi mới lan xuống và khu trú ở hố chậu phải ?
Phúc mạc và thần kinh chi phối cho phúc mạc:
Phúc mạc gồm:
– Lá tạng: bao phủ các tạng trong khoang bụng
– Lá thành: lót mặt trong của thành bụng, vùng chậu và dưới hoành
Thần kinh chi phối cảm giác cho 2 lá phúc mạc là:
+ Phúc mạc thành: Được chi phối bởi thần kinh thân thể T6-L1
+ Phúc mạc tạng: Được chi phối bởi thần kinh giao cảm T5-L3
Cảm giác đau và đặc điểm cảm nhận đau từ thần kinh giao cảm và thần kinh thân thể
Cảm giác đau do tổn thương bắt đầu từ một thụ thể đau nằm rải rác khắp cơ thể. Những thụ thể đau này sẽ truyền tín hiệu bằng xung động điện dọc theo các sợi thần kinh cảm giác hướng tâm qua sừng sau tủy sống rồi đi lên não bộ.
Đặc điểm cảm nhận đau từ thần kinh giao cảm và thần kinh thân thể là khác nhau.
–Thần kinh giao cảm khi bị kích thích thường cho cảm giác đau mơ hồ, không định khu rõ rệt, trừ khi bị kích thích quá mạnh thì sẽ cho cảm giác đau rõ ràng.
=> Cảm giác đau tạng: Cảm giác đau được truyền từ lá tạng của phúc mạc -> cảm giác đau mơ hồ. Bn ko thể xác định chính xác điểm đau.
Đau tạng xảy ra khi phúc mạc tạng bị kéo căng
–Thần kinh thân thể khi bị kích thích sẽ cho cảm giác đau khu trú hơn, rõ ràng hơn.
=> Cảm giác đau thành: Cảm giác đau được truyền từ lá thành của phúc mạc, cảm giác đau rõ ràng hơn. Bn chỉ ngón tay chính xác vào vị trí đau
Đau thành đồng nghĩa viêm phúc mạc và cần can thiệp ngoại khoa gấp
Đau quy chiếu
Là một biến thể đặc biệt của đau tạng
Đau quy chiếu tức là vị trí đau mà bệnh nhân cảm nhận được không trùng với vị trí giải phẫu của tổn thương.
Sự lẫn lộn về vị trí này là do Hai dây thần kinh cảm giác của 2 vị trí khác nhau cùng truyền dẫn tín hiệu thần kinh về cùng một tầng tủy sống hoặc 2 tầng tủy sống kề nhau.
Tk cảm giác nào truyền về tín hiệu “mơ hồ” (cảm giác tạng) thì vỏ não sẽ “hiểu lầm” là tín hiệu được truyền từ một vùng khác (vùng quy chiếu)
Phần lớn đau tạng (TK giao cảm bị kích thích) => đều có vùng quy chiếu
Vd: Đau xuất phát từ dạ dày, tá tràng, gan, mật, tụy => cho cảm giác đau có vùng quy chiếu là vùng thượng vị.
Chú ý:
Tk giao cảm bị kích thích quá mạnh (sỏi niệu quản) => Bn cũng có thể có cảm giác đau rõ ràng và định khu rõ
Đau thành ở nơi mà sự phân bố TK thân thể nghèo nàn => cũng có thể có vùng quy chiếu
Một cơn đau tạng có thể có 2 vùng đau quy chiếu
Vd: Đau từ đường mật và túi mật => cảm giác đau ở thượng vị và đôi khi lan lên đỉnh xương bả vai phải
Cụ thể trong VRT cấp, Bn đau thượng vị trước, nhưng thật sự tại đó không có tổn thương..
Đầu tiên xuất phát điểm của viêm ruột thừa là do tắc nghẽn, khi bị tắc nghẽn thì thành ruột thừa bị căng ra và gây ra cảm giác đau tạng
=> Do thần kinh chi phối cảm giác đau tạng của ruột thừa và cảm giác đau thành của vùng thượng vị hay quanh rốn đều dẫn truyền về vỏ não qua một tầng tủy sống nên vỏ não sẽ hiểu nhầm là kích thích đau đến từ vùng thượng vị hay quanh rốn.
Ruột thừa và ruột non có chung nguồn gốc là ruột giữa => do đó đau khởi đầu do hệ thần kinh tự động truyền về đám rối quanh rốn hay đám rối quanh thượng vị.
Giai đoạn sau, khi ruột thừa bị viêm càng nhiều
=> Trải qua 3 giai đoạn xung huyết, hoại tử , nung mủ
=> Tiết dịch rỉ viêm nhiều hơn làm lớp thanh mạc của nó sưng tấy lên và tiếp xúc với lá thành phúc mạc. Cảm giác đau của vùng đó sẽ chuyển sang đau thành nên bệnh nhân có cảm giác đau khu trú tại hố chậu phải.
Nếu diễn tiến tiếp tục => Ruột thừa sẽ vỡ mủ và gây ra các biến chứng nặng
cảm ơn 🙂
Công nhận bài này nói quá dài dòng, dù sao cũng cảm ơn tác giả!!!
Loãng. C